Xem lại bài của Mon July 23, 2012

FOR MONDAY JULY 23, 2012

Thưa các bạn, tôi viết các posts này với chủ đích duyệt lại các câu Kinh Thánh — đã được dịch sang Việt Ngữ và hằng được đọc trong các Thánh lễ — mà tôi thấy cần sửa chữa cho sáng nghĩa, hay cho không bị trật như đã dịch.  Tôi chỉ biết theo bản Anh Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ mà thôi, ngoài ra không có kiến thức nào khác về ngôn ngữ của Kinh Thánh.  Nếu việc làm của tôi có chỗ không đúng vì không có kiến thức ngoại ngữ nào khác, như Hy Lạp, Hebrew, và cũng không phải là học giả Kinh Thánh, thì xin quí vị niệm tình tha thứ và chỉ dẫn cho.   Đa tạ.

Hôm nay, tôi lại có ý nghĩ sau: Chúa ban cho tôi có khả năng đọc thêm một ngôn ngữ, để hiểu rõ hơn Lời Chúa qua Thánh Kinh.  Còn những người đồng bào tôi chỉ đọc một ngôn ngữ Mẹ đẻ của mình, nên khi bản dịch của câu văn vì lý do nào đó bị tối nghĩa, người đó đành phải chịu.  Tôi muốn chia sẻ ơn Chúa cho đọc Anh ngữ đó với các tín hữu khác mà thôi, không có ý chỉ trích hay chê bai.

Lời Chúa cho Thánh Lễ thứ hai July 23, 2012 <Việt ngữ>

Lời Chúa cho Thánh Lễ thứ hai July 23, 2012 <English>

Trích sách Tiên tri Mikha  —  Mk 6, 1-4. 6-8

Will the LORD be pleased with thousands of rams,
with myriad streams of oil?

Câu trên bằng tiếng Việt trong các Sách Bài Đọc như sau:

Chúa có hài lòng với hằng ngàn chiên đực, hoặc hằng muôn vàn dê đực béo tốt chăng?

thế thì “Myriad streams of oil”  không thấy đề cập đến; và câu Việt ngữ trên có vẻ hơi ngớ ngẩn vì lập ̣lại cũng ý trước.

Cũng vậy, câu: Shall I give my first-born for my crime,
the fruit of my body for the sin of my soul?

Tiếng Việt trong sách các bài đọc thì viết:

Tôi sẽ dâng con đầu lòng để đền tội ác của tôi, và dâng con cái tôi để đền chính tội tôi chăng?

Nếu dịch như trên thì cũng ổn rồi, nhưng câu tiếng Anh xem ra có vẻ nhấn mạnh:

fruit of my body và sin of my soul.

nếu hai ý thức trên mà chuyển ngữ là “con cái tôi” và “chính tội tôi” thì thấy cũng không khác gì những câu đi trước đó:  con đầu lòng, tội ác của tôi.

Đây là trường hợp cũng khó giải quyết, có lẽ vì các ngôn ngữ khác nhau không có cùng lối diễn tả; nhưng nó nói lên sự tốn kém công lao biết là chừng nào khi phải vặn óc ra để chuyển ngữ cho có được tối đa hiệu quả.

Shall I give my first-born for my crime,
the fruit of my body for the sin of my soul?

Vậy trước khi có thể bỏ thêm nhiều công lao sức lực như công việc đòi hỏi, ta thử một phen nhanh chóng xem sao:

Tôi phải mất con đầu lòng vì tội mình sao; hoa quả của thân xác tôi mất đi để đền vì lỗi phạm của linh hồn tôi sao?

Chúng ta thấy cách chuyển ngữ đó rất khác với bản trong Sách Bài Đọc trong Thánh Lễ như sau:

Tôi sẽ dâng con đầu lòng để đền tội ác của tôi, và dâng con cái tôi để đền chính tội tôi chăng?

Sở dĩ tôi nghĩ như thế là vì các mạch văn trước đó trong bài nó như thế này:

With what shall I come before the Lord, and bow before God most high?  Shall I come before him with burnt offerings, with calves a year old? Will the Lord be pleased with thousands of rams, with myriad streams of oil?  Shall I give my first born for my crime, the fruit of my body for the sin of my soul?

BÀI CHÚNG TA SẼ NGHE TRONG THÁNH LỄ HÔM NAY:

Các ngươi hãy nghe Chúa phán: “Ngươi hãy đứng lên, hãy trình bày lời tố cáo của ngươi trước núi non, và các đồi hãy nghe tiếng của ngươi. Hỡi các núi và nền tảng kiên cố của địa cầu, hãy nghe Chúa tố cáo dân Người và biện luận với Israel.

 “Hỡi dân Ta, Ta đã làm gì cho ngươi? Hay là Ta đã làm khổ ngươi điều gì? Hãy trả lời cho Ta biết. Chính Ta dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập, đã giải thoát ngươi khỏi nhà nô lệ, và sai Môsê, Aaron và Maria đi trước mặt ngươi?”

 Tôi sẽ hiến dâng vật gì lên Thiên Chúa cho xứng đáng? Hay là tôi sấp mình trước Thiên Chúa Tối Cao? Tôi sẽ dâng lên Người của lễ toàn thiêu và con bê một tuổi chăng? Chúa có hài lòng với hằng ngàn chiên đực, hoặc hằng muôn vàn dê đực béo tốt chăng? Tôi sẽ dâng con đầu lòng để đền tội ác của tôi, và dâng con cái tôi để đền chính tội tôi chăng?

Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi: tức là ngươi hãy thực hiện công bình, quý mến lòng nhân lành, và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa ngươi.  Đó là lời Chúa

THỬ VIẾT LẠI BÀI ĐỌC MỘT NHƯ SAU, KHÔNG BIẾT CÓ LÀM CHO DỄ HIỂU KHÔNG, MỜI BẠN ĐỌC VÀ CHO Ý KIẾN …

THỨ HAI TUẦN  XVI  THƯỜNG NIÊN
BÀI ĐỌC I:    Mk 6, 1-4. 6-8
“Người hỡi, Ta sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi”.      
Trích sách Tiên tri Mikha.

Hãy nghe lời Chúa phán: Ngươi hãy đứng lên,
hãy nói cho núi đồi nghe lời kiện cáo,
và hãy cho chúng nghe tiếng ngươi.
Này nghe đây, hỡi núi đồi, lời tố cáo của Đức Chúa,
Hãy lắng nghe, nền móng trái đất !
Đức Chúa có điều tố tụng dân riêng Người, và sẽ tố tội Israel.

Dân ta ơi, Ta đã có lỗi gì với các ngươi, hoặc Ta đã làm mất lòng các ngươi thế nào? Hãy trả lời Ta. 
Ta là đấng dẫn các ngươi ra khỏi nơi nô lệ là đất Ai Cập
Ta đã cứu thoát các ngươi,
Và Ta là đấng đã gởi Môi sen, A-a-ron và Mia-ri-am đến giúp các ngươi.

Tôi lấy gì để đến diện kiến mà tạ lễ với Đức Chúa là Đấng Tối Cao?  Lễ toàn thiêu của chiên tơ một tuổi hay chăng?  Không biết với một ngàn con chiên đực, với mười vạn bình dầu tuôn chảy Chúa có vui lòng không?  Không lẽ tôi phải mất con đầu lòng để đền tội của tôi, hoa quả của thân xác tôi mà phải mất đi vì tội lỗi của linh hồn tôi sao?

Con người hỡi, ngươi đã được dậy cho biết thế nào là thiện hảo, và Đức Chúa đòi hỏi những gì nơi ngươi.  Đức Chúa muốn con người chỉ làm điều công chính và chỉ chấp nhận yêu quí sự tốt lành, và cùng sống khiêm hạ mỗi ngày với Đức Chúa của các ngươi.

Đó là Lời Chúa. 

<sẽ tiếp tục>

Xem Lại bài đọc 7-22-2012

Thưa các bạn, tôi viết các post này với chủ đích duyệt lại các câu Kinh Thánh — đã được dịch sang Việt Ngữ và hằng được đọc trong các Thánh lễ — mà tôi thấy cần sửa chữa cho sáng nghĩa, hay cho không bị trật như đã dịch.  Tôi chỉ biết theo bản Anh Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ mà thôi, ngoài ra không có kiến thức nào khác về ngôn ngữ của Kinh Thánh.  Nếu việc làm của tôi có chỗ không đúng vì không có kiến thức ngoại ngữ nào khác, như Hy Lạp, Hebrew, và cũng không phải là học giả Kinh Thánh, thì xin quí vị niệm tình tha thứ và chỉ dẫn cho.   Đa tạ.

Hôm nay, tôi sẽ xét lại bản dịch cho Bài đọc lễ sau đây:

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN NĂM B – nhằm ngày 22 tháng 7 năm 2012.

Bài đọc một lấy từ Sách Tiên Tri Giêrêmia.  BÀI ĐỌC I: Gr 23, 1-6

  • Câu thứ nhất của bài đọc là: “Chúa phán: “Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu xé đoàn chiên Ta.”…  Trong câu tiếng Anh, tôi chỉ thấy viết là “Woe to the shepherds who mislead and scatter the flock of my pasture,  says the LORD.   Nếu tôi phải dịch, thì sẽ không có chữ “xâu xé”, vì không thấy bản tiếng Anh có chữ đó.  Tôi thấy có thể dịch như sau: “Chúa phán: ‘Khốn cho mục tử nào dẫn chiên Ta đi lạc và làm tản mát đoàn chiên nhà Ta.’
    Tuy là chuyện nhỏ, nhưng tôi thấy ý nghĩa hai câu sau đây khác nhau:

      1. Chúa phán: “Khốn cho các mục tử làm tản mát và xâu xé đoàn chiên Ta.
      2. “Chúa phán: ‘Khốn cho mục tử nào dẫn chiên Ta đi lạc và làm tản mác đoàn chiên nhà Ta.’  “Woe to the shepherds who mislead and scatter the flock of my pasture,  says the LORD.

Kết luận:  Thêm chữ “xâu xé” là nói thêm cho Ngôn sứ Giêrêmia, và có thể làm thay đổi ý của Thiên Chúa.  Có chữ xâu xé thì khó thấy ai làm vậy, còn chỉ “dẫn đi lạc và làm tản mác” thì dễ thấy đã có xảy ra, ngay trong thời đại chúng ta đang sống .

  •  Tiện thể, đây là bài đọc một của Chúa Nhật ngày mai,  7/22/2012  (click on link)

    Tiếp theo là câu:  Ta sẽ cho chúng có những chủ chăn để họ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn sợ hãi và kinh hoàng, và chúng không còn thiếu thốn gì nữa”.

    Câu này dịch rất lạ, vì theo Bản Anh Ngữ của USCCB – Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ – thì câu này như sau: I will appoint shepherds for them who will shepherd them so that they need no longer fear and tremble; and none shall be missing, says the LORD.  “Chúa phán: ‘Ta sẽ chỉ định các mục tử cho chúng, những mục tử thực sự  chăn dắt chiên, để chiên không còn phải run rẩy sợ hãi; và không con nào phải bị mất đi.’

    • Chúng sẽ không còn sợ hãi và kinh hoàng, và chúng không còn thiếu thốn gì nữa”
    • để chiên không còn phải run rẩy sợ hãi; và không con nào phải bị mất đi.’

    Rõ là hai câu khác nhau.

    **************** THÁNH VỊNH ĐÁP CA ************************

    (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con. – Đáp.

    Phê bình: Không nên có dấu chấm giữa chữ “con” và “Cây” như ở trên.
    Nên viết như sau:  vì có Chúa cầm trượng ở cùng con làm cho con thêm can đảm.  Như thấy ở bản Anh Ngữ:  for you are at my side
    with your rod and your staff that give me courag
    e.

    <còn tiếp>

     

Xem Lại Bài Đọc của ngày …

Thứ Năm 19 tháng 7, 2012

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 26, 7-9. 12. 16-19

“Hỡi những kẻ nằm trong tro bụi, hãy thức dậy và hãy nhảy mừng”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðường lối người công chính thì ngay thẳng, Chúa ban cho bằng phẳng đường nẻo của người công chính. Lạy Chúa, chúng con cậy trông Chúa trong đường xét xử của Chúa. Thánh danh và sự kính nhớ Chúa là sự ước mong của tâm hồn. Ban đêm hồn con khát khao Chúa, và sớm mai khi thức dậy, lòng trí con hướng về Chúa. Từ khi Chúa thực hiện việc xét xử ở trần gian, thì người dương thế học biết sự công chính.

Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con ơn bình an, vì mọi việc chúng con làm, đều do Chúa làm cho chúng con.

Lạy Chúa, trong cơn hoạn nạn, chúng con đã tìm kiếm Chúa, và trong khi Chúa sửa dạy, chúng con kêu van đến Chúa. Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con cưu mang, chúng con đau đớn như phải sinh con.

Chúng con không mang lại sự cứu độ cho trần gian, và không còn người sinh ra trên trần gian. Người chết của Chúa sẽ được sống, các xác chết của con sẽ sống lại. Hỡi những kẻ nằm trong tro bụi, hãy thức dậy và nhảy mừng, vì sương Chúa là sương ánh sáng, và trái đất sẽ làm tái sinh u tối.

Ðó là lời Chúa.

                                               VIẾT LẠI DỰA THEO BÀI LẤY TỪ USCCB.ORG

Bài Ðọc I: (Năm II) Is 26, 7-9. 12. 16-19

“Hỡi những kẻ nằm trong tro bụi, hãy thức dậy và hãy ca mừng”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðường lối người công chính thì không gồ ghề,
Chúa làm cho đường đi của người công chính bằng phẳng.
Lạy Chúa, chúng con tìm nơi Chúa đường lối của Chúa và những xét xử của Ngài.
Linh hồn chúng con trân quí Thánh danh và ngôi vị cao cả của Chúa.

Linh Hồn con khát khao Chúa trong lúc đêm khuya và thần trí trong con tỉnh thức đợi chờ Ngài.   

Từ khi Chúa cho toả chiếu vào trái đất phán xét của Ngài,   người dương thế  hiểu biết thế nào là công chính.
Lạy Chúa, Chúa đong và phát cho chúng con ơn bình an, vì mọi việc chúng con làm, đều do Chúa làm cho chúng con.

Lạy Chúa, trong khi bị khổ ải vì bị Chúa nghiêm phạt sửa dạy, chúng con kêu than cùng Chúa. Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con đã rước vào thân các đau khổ ấy và lăn lộn kêu gào trong cơn đau.

Chúng con đã không đạt được việc cứu độ cho trần gian, người trần thế không thể làm được việc đó.  Nhưng kẻ chết trong Chúa sẽ được sống, các xác chết của người ta sẽ sống lại. Hỡi những kẻ nằm trong tro bụi, hãy thức dậy và ca mừng, vì sương Chúa là sương ánh sáng, và miền đất có bóng mát sẽ sản sinh.

Ðó là lời Chúa.

Chú thích:  Bài trên lấy từ Sách Bài Đọc dùng trong Thánh Lễ, cũng như ở các nơi trên mạng… Bài dưới có ý đề nghị sửa lại những nơi dịch khó hiểu, hoặc không chính xác.

Để so sánh, xin xem bản tiếng Anh của usccb.org
http://usccb.org/bible/readings/071912.cfm

*********************Trưng dẫn vài thí dụ  ********************

1/ ? ?

My soul yearns for you in the night, yes, my spirit within me keeps vigil for you;
Ban đêm hồn con khát khao Chúa, và sớm mai khi thức dậy, lòng trí con hướng về Chúa.

Linh Hồn con khát khao Chúa trong lúc đêm khuya và thần trí trong con tỉnh thức đợi chờ Ngài.

2/  ? ?

Salvation we have not achieved for the earth,
the inhabitants of the world cannot bring it forth.
Chúng con không mang lại sự cứu độ cho trần gian, và không còn người sinh ra trên trần gian.
Chúng con đã không đạt được việc cứu độ cho trần gian, người trần thế không thể làm được việc đó.

3/  ? ?

O LORD, oppressed by your punishment,
we cried out in anguish under your chastising.
As a woman about to give birth
writhes and cries out in her pains,
so were we in your presence, O LORD.
We conceived and writhed in pain,
giving birth to wind;

Lạy Chúa, trong cơn hoạn nạn, chúng con đã tìm kiếm Chúa, và trong khi Chúa sửa dạy, chúng con kêu van đến Chúa.

Lạy Chúa, trong khi bị khổ ải vì bị Chúa nghiêm phạt sửa dạy, chúng con kêu than cùng Chúa.

4/ ?

Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con cưu mang, chúng con đau đớn như phải sinh con.

Lạy Chúa, trước tôn nhan Chúa, chúng con khác nào như đàn bà mang thai sắp sinh, kêu la đau đớn. Chúng con đã rước vào thân các đau khổ ấy và lăn lộn kêu gào trong cơn đau.

*********************THÁNH VỊNH ĐÁP CA********************

Ðáp Ca: Tv 101, 13-14ab và 15. 16-18. 19-21

Ðáp: Từ trời cao xanh Chúa đã quan sát địa cầu (c. 20b).

Xướng: 1) Phần Chúa, lạy Chúa, đời đời còn mãi và danh Ngài tồn tại đời nọ tới đời kia. Xin Ngài đứng lên, thương xót Sion, nay là thời để Ngài quan tâm phù trợ. Các bầy tôi ưa thích tường hoa móng đá, và ngậm ngùi thương đống gạch tro hoang tàn. – Ðáp.

 1) Lạy Chúa, Chúa sống mãi muôn đời và danh Ngài tồn tại qua bao thế hệ. Ngài sẽ hiện đến và thương xót Sion, vì đã đến lúc nó cần được giảm chước.  Vì ngay cả các hòn đá của Xion chúng con cũng quí mến,  Và đất bụi của nó cũng làm cho chúng con thương cảm –

 Ðáp: Từ trời cao xanh, Chúa quan sát địa cầu

R. (20b) From heaven the Lord looks down on the earth.  (from USCCB)

2) Lạy Chúa, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ quý trọng vinh quang Ngài; khi Chúa sẽ tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn; Ngài sẽ đoái nghe lời nguyện kẻ túng nghèo, và không chê lời họ kêu van. – Ðáp.

2)  Lạy Chúa, khi Chúa đã tái lập Sion, Ngài xuất hiện trong vinh quang xán lạn;  khi Ngài đoái nghe lời nguyện của kẻ cơ hàn, và không chê lời họ kêu van, muôn dân sẽ kính tôn danh thánh Chúa, và mọi vua trên địa cầu sẽ kinh sợ vinh quang Ngài; – Ðáp.

3) Những điều này được ghi lại cho thế hệ mai sau, và dân tộc được tác tạo sẽ ca tụng Thiên Chúa. Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần thế, để nghe tiếng than khóc của tù nhân, để giải thoát kẻ bị lên án tử. – Ðáp.

3) Hãy ghi lại những điều này cho các thế hệ mai sau, và để cho những tạo vật mà Chúa sẽ dựng  nên phải ca ngợi Chúa.  Từ thánh điện cao sang Chúa đã đoái nhìn, từ trời cao Chúa đã ngó xuống trần gian, để nghe tiếng than khóc của người bị tù tội, để giải thoát những người số phận sẽ phải chết. – Ðáp.